Luận về sắc mạng chia theo ngũ hành:
Xám – Mộc, Ô – Thủy, Nhạn – Kim, Tía – Hỏa, Ó tiến thưởng – Thổ, Ngũ Sắc ko theo mạng nào cả.
Sắc mạng ăn thua nhau: Tía > Nhạn > Xám > Ó vàng > Ô (lưu ý, dấu > để chỉ ăn, thắng)
Xám – Mộc, Ô – Thủy, Nhạn – Kim, Tía – Hỏa, Ó tiến thưởng – Thổ, Ngũ Sắc ko theo mạng nào cả.
Sắc mạng ăn thua nhau: Tía > Nhạn > Xám > Ó vàng > Ô (lưu ý, dấu > để chỉ ăn, thắng)
>> cập nhật tin đá gà cựa sắt
Xuân ( tháng một – hai – 3)
Xám: Vượng,
Ó vàng: Tử
Tía: Tướng
Nhạn: tù
Ô: Hưu
Xám: Vượng,
Ó vàng: Tử
Tía: Tướng
Nhạn: tù
Ô: Hưu
Hạ ( tháng 4 – 5 – 6)
Xám: Hưu,
Ó vàng: Tướng
Tía: Vượng
Nhạn: Tử
Ô: phạm nhân
Thu ( tháng 7 – 8 – 9)
Xám: Tử
Ó vàng: Hưu
Tía: tù hãm
Nhạn: Vượng
Ô: Tướng
Đông ( tháng 10 –112 – 12)
Xám: Tướng,
Ó vàng: tầy
Tía: Tử
Nhạn: Hưu
Ô: Vượng
>> tin đá gà ăn tiền
*Tương sinh: nghĩa là cung cấp, trợ giúp, kim-->thủy, thủy-->mộc, mộc-->hỏa, hỏa-->thổ, thổ-->kim, đi giáp 1 vòng, những hành sinh lẫn nhau.
*Tương khắc: là cản trở, khắc chế, kim> mộc, mộc>thổ, thổ>thủy, thủy>hỏa, hỏa>kim, các hành khắc lẫn nhau, không hành nào là quán quân.
*Tương hòa: là bình hòa, không cung cấp hoặc cản trở, kim~kim, mộc~mộc, thủy~thủy, hỏa~hỏa, thổ~thổ.
*Tương thừa: ngụ ý “thừa thế lấn áp”, chẳng hạn “mộc khắc thổ”, ví như mộc quá mạnh hoặc thổ quá suy thì gọi là “mộc thừa thổ”.
*Tương vũ: ngụ ý “khinh nhờn”, chẳng hạn “thủy khắc hỏa”, ví như hỏa quá mạnh hoặc thủy quá suy thì gọi là “hỏa vũ thủy”.
*Tương khắc: là cản trở, khắc chế, kim> mộc, mộc>thổ, thổ>thủy, thủy>hỏa, hỏa>kim, các hành khắc lẫn nhau, không hành nào là quán quân.
*Tương hòa: là bình hòa, không cung cấp hoặc cản trở, kim~kim, mộc~mộc, thủy~thủy, hỏa~hỏa, thổ~thổ.
*Tương thừa: ngụ ý “thừa thế lấn áp”, chẳng hạn “mộc khắc thổ”, ví như mộc quá mạnh hoặc thổ quá suy thì gọi là “mộc thừa thổ”.
*Tương vũ: ngụ ý “khinh nhờn”, chẳng hạn “thủy khắc hỏa”, ví như hỏa quá mạnh hoặc thủy quá suy thì gọi là “hỏa vũ thủy”.
Sinh khắc của màu lông
*Nhạn: ăn ó vàng, xám – thua ô, điều.
*Xám: ăn ô, ó tiến thưởng – thua điều, nhạn
*Ô: ăn nhạn, điều – thua xám, ó vàng
*Điều: ăn xám, nhạn – thua ó vàng, ô
*Ó: tiến thưởng ăn điều, ô – thua nhạn, xám
*Luận “thắng-thua” thì quan hệ tương-khắc rất dễ hiểu, giả dụ “ta khắc địch” = ta thắng, địch thua, “địch khắc ta” = địch thắng, ta thua (khắc xuất ăn khắc nhập). nhưng mà khi bàn về quan hệ tương-sinh thì biết ai thắng, ai thua? Về bản chất thì quan hệ tương-sinh là quan hệ cung cấp, viện trợ chứ không phải là quan hệ đối kháng. bên cạnh đó, lúc vận dụng vào đá gà thì phải mang thấm tháp. Căn cứ theo ngũ hành luận thì sinh xuất bị thiệt, mất công lực, sinh nhập được hưởng, tăng công lực --> sinh nhập ăn sinh xuất. giả dụ “ta sinh địch” = ta thua, địch thắng, “địch sinh ta” = địch thua, ta thắng.
*Kê kinh không đề cập rõ thắng-thua trong quan hệ tương-sinh như thế nào mà ở phần nhật thần sinh-khắc, “sinh nhập” luôn nhận được lợi thế khi mà “sinh xuất” bị liệt vào vận hạn. chẳng hạn, ngày mộc thì hùng kê đại chiến tía mạnh nhất do mộc sinh hỏa, ngày thủy thì chơi đá gà nhạn (kim) bị rơi vào ngày kỵ. tương tự, chúng ta với thể bạo dạn suy luận rằng “sinh nhập ăn sinh xuất”, điều này cũng thuận có ngũ hành luận. Phải nêu rõ tương tự bởi vì với sinh tồn ý kiến trái ngược “sinh xuất ăn sinh nhập”, giả dụ ta sinh địch = ta thắng, địch thua, địch sinh ta = địch thắng, ta thua.
bốn thời sinh khắc
*Tứ thời sinh khắc là quan hệ vượng-suy của các hành theo mùa.
*Xuân, hạ, thu, đông: bốn mùa tuần hoàn, hoán chuyển. Cuối mỗi mùa đều với một thời kỳ nhập thổ (tứ quý). Hành đại diện của các mùa: xuân-mộc, hạ-hỏa, thu-kim, đông-thủy, tứ quý-thổ.
*Nhạn: ăn ó vàng, xám – thua ô, điều.
*Xám: ăn ô, ó tiến thưởng – thua điều, nhạn
*Ô: ăn nhạn, điều – thua xám, ó vàng
*Điều: ăn xám, nhạn – thua ó vàng, ô
*Ó: tiến thưởng ăn điều, ô – thua nhạn, xám
*Luận “thắng-thua” thì quan hệ tương-khắc rất dễ hiểu, giả dụ “ta khắc địch” = ta thắng, địch thua, “địch khắc ta” = địch thắng, ta thua (khắc xuất ăn khắc nhập). nhưng mà khi bàn về quan hệ tương-sinh thì biết ai thắng, ai thua? Về bản chất thì quan hệ tương-sinh là quan hệ cung cấp, viện trợ chứ không phải là quan hệ đối kháng. bên cạnh đó, lúc vận dụng vào đá gà thì phải mang thấm tháp. Căn cứ theo ngũ hành luận thì sinh xuất bị thiệt, mất công lực, sinh nhập được hưởng, tăng công lực --> sinh nhập ăn sinh xuất. giả dụ “ta sinh địch” = ta thua, địch thắng, “địch sinh ta” = địch thua, ta thắng.
*Kê kinh không đề cập rõ thắng-thua trong quan hệ tương-sinh như thế nào mà ở phần nhật thần sinh-khắc, “sinh nhập” luôn nhận được lợi thế khi mà “sinh xuất” bị liệt vào vận hạn. chẳng hạn, ngày mộc thì hùng kê đại chiến tía mạnh nhất do mộc sinh hỏa, ngày thủy thì chơi đá gà nhạn (kim) bị rơi vào ngày kỵ. tương tự, chúng ta với thể bạo dạn suy luận rằng “sinh nhập ăn sinh xuất”, điều này cũng thuận có ngũ hành luận. Phải nêu rõ tương tự bởi vì với sinh tồn ý kiến trái ngược “sinh xuất ăn sinh nhập”, giả dụ ta sinh địch = ta thắng, địch thua, địch sinh ta = địch thắng, ta thua.
bốn thời sinh khắc
*Tứ thời sinh khắc là quan hệ vượng-suy của các hành theo mùa.
*Xuân, hạ, thu, đông: bốn mùa tuần hoàn, hoán chuyển. Cuối mỗi mùa đều với một thời kỳ nhập thổ (tứ quý). Hành đại diện của các mùa: xuân-mộc, hạ-hỏa, thu-kim, đông-thủy, tứ quý-thổ.
*Quan hệ của màu chiến kê theo mùa. chả hạn, gà chọi xám phồn thịnh (vượng) vào mùa đông, mạnh (tướng) và mùa đông, định hình (hưu) vào mùa hạ, sa sút (tù) vào tứ quý và bại (tử) vào sắm thu.
*Quan hệ của mùa theo màu chiến kê. chả hạn, vào mùa đông, chiến kê ô thịnh trị (vượng), chơi đá gà xám mạnh (tướng), gà nhạn ổn định (hưu), chơi đá gà ó tiến thưởng sa sút (tù) và đá gà điều bại (tử).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét